Tư tưởng “trọng dân” của Chủ tịch Hồ Chí Minh và bài học trong xây dựng chính quyền vì nhân dân phục vụ hiện nay
Tư tưởng “trọng dân” của Chủ tịch Hồ Chí Minh là một nội dung cơ bản, quan trọng và xuyên suốt trong toàn bộ sự nghiệp cách mạng của Người, đến nay vẫn còn nguyên giá trị lý luận và thực tiễn. Việc nghiên cứu và vận dụng tư tưởng “trọng dân” của Người trong xây dựng chính quyền vì nhân dân phục vụ có ý nghĩa hết sức quan trọng, góp phần thực hiện thắng lợi các mục tiêu Đại hội XIII của Đảng đề ra.
Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ với người dân huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh. (Ảnh: TTXVN)
NỘI DUNG TƯ TƯỞNG "TRỌNG DÂN" CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH
Quan niệm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về nhân dân: Trên cơ sở kế thừa truyền thống dân tộc và văn hóa nhân loại, Người đã đưa ra quan niệm về dân với nội hàm rất rộng và chủ yếu đề cập đến nhân dân Việt Nam, Người thường gọi nhân dân bằng nhiều cách gọi khác nhau, như “dân”, “dân ta”, “dân chúng” hay “đồng bào”, thể hiện sự gần gũi và dễ hiểu. Theo Người, dân là tập hợp đa số những người khác nhau về dân tộc, tôn giáo, giới tính, giai tầng khác nhau, sống ở trong nước hay ở nước ngoài, không phân biệt giống nòi, trai gái, giàu nghèo, tôn giáo. Trong điều kiện là một nước nông nghiệp, thuộc địa, Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ yếu đề cập đến lực lượng trực tiếp sản xuất, có tiềm lực vật chất và tinh thần to lớn, đó là những người dân lao động, bao gồm công nhân, nông dân, trí thức; Người chỉ rõ: “Nhân dân là bốn giai cấp công, nông, tiểu tư sản, tư sản dân tộc và những phần tử khác yêu nước”(1). Trong nhiều bài viết, bài phát biểu, Người đề cập đến nhân dân với nội hàm là mọi người dân nước Việt, là mỗi người con Rồng cháu tiên, không phân biệt già, trẻ, gái, trai, giàu nghèo, quý tiện, trong đó công nông chiếm tuyệt đại đa số. Đó là nền tảng của quốc dân.
Mặt khác, Chủ tịch Hồ Chí Minh phân biệt sự khác nhau giữa quốc dân và nhân dân. Quốc dân là mọi người Việt Nam chung gốc tích, văn hóa, lịch sử, không phân biệt trong đó tính chất tiến bộ hay phản động. Người cho rằng: “Nhân dân và quốc dân khác nhau. Nhân dân là bốn giai cấp công, nông, tiểu tư sản, tư sản dân tộc và những phần tử khác yêu nước. Đó là nền tảng của quốc dân. Những bọn phản động chưa đến nỗi bị xử tử, vẫn là quốc dân. Nhưng chúng không được ở trong địa vị nhân dân, không được hưởng quyền lợi như nhân dân. Chúng không có quyền tuyển cử, ứng cử; không có quyền tổ chức tuyên truyền, v.v.. Song chúng cần phải làm tròn nghĩa vụ, như phục tùng trật tự, tuân theo pháp luật của nhân dân”(2). Như vậy, dân trong quan điểm của Người là tập hợp tất cả người Việt Nam thuộc các giai cấp, tầng lớp xã hội khác nhau, chủ yếu là những người lao động, nhưng không bao hàm những kẻ tay sai, bán nước, phản động, xâm hại lợi ích quốc gia, dân tộc. Quan niệm về dân của Chủ tịch Hồ Chí Minh là sự kế thừa tư tưởng “trọng dân”, thân dân trong lịch sử và phù hợp với quan điểm của các nhà lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin đã chỉ ra khi khẳng định vai trò của quần chúng nhân dân.
Đề cao vai trò và sức mạnh của nhân dân: Từ khi có xã hội loài người đến nay, lịch sử xã hội là do quần chúng nhân dân sáng tạo, xây dựng và là động lực thúc đẩy lịch sử tiến lên không ngừng. Mọi sự kiện lớn lao hay các cuộc cách mạng xảy ra trong xã hội đều có sự ủng hộ, tham gia tích cực của đông đảo quần chúng nhân dân. Dân tộc Việt Nam trải qua hàng nghìn năm lịch sử dựng nước và giữ nước, đã hình thành tư tưởng “trọng dân”, coi dân là gốc, chở thuyền là dân, lật thuyền cũng là dân.
Tiếp thu tinh hoa của dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh tư tưởng “trọng dân” trong nhiều bài nói, bài viết và thực hành trong thực tiễn cách mạng theo chân lý “việc gì có lợi cho dân phải hết sức làm, việc gì có hại cho dân phải hết sức tránh”(3). Người nhiều lần khẳng định tư tưởng lấy dân làm gốc, “Gốc có vững cây mới bền, Xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân”(4); có lực lượng dân chúng thì việc to tát mấy, khó khăn mấy làm cũng được.
Vai trò, sức mạnh của nhân dân càng được phát huy, nhân lên gấp bội khi được tập hợp lực lượng hùng hậu, kết thành một khối thống nhất. Theo Người, “Trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân”(5). Có thể thấy, Người đặt nhân dân ở vị trí trung tâm, sánh cùng trời, đất và xác định rõ không có gì quý bằng nhân dân; không có gì mạnh bằng sức mạnh đoàn kết của nhân dân và cũng không có gì chống được dân chúng - “Dân khí mạnh thì quân lính nào, súng ống nào cũng không chống lại”(6). Từ việc tổng kết, Chủ tịch Hồ Chí Minh đi đến khẳng định một nguyên lý sâu sắc: Có dân là có tất cả, mất dân là mất hết, “Ta được lòng dân thì ta không sợ gì cả. Nếu không được lòng dân thì ta không thể làm tốt công tác”(7).
Chính vì đề cao, coi trọng vai trò, sức mạnh của dân nên Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn “đối với dân, ta đừng có làm gì trái ý dân. Dân muốn gì, ta phải làm nấy”(8), bởi “Ý dân là ý trời. Làm đúng ý nguyện của dân thì ắt thành. Làm trái ý nguyện của dân thì ắt bại. Đó là lời nói chí lý của thánh hiền đời xưa”(9).
Coi trọng và xác định nhân dân là mục tiêu, động lực của cách mạng: Đây là một trong những nội dung cơ bản của tư tưởng “trọng dân” Hồ Chí Minh, bởi dân là điểm xuất phát và cũng là điểm đến cuối cùng trong toàn bộ quan điểm và hoạt động cách mạng của Người. Ngay từ sớm, khi chứng kiến cảnh nước mất nhà tan, nhân dân lầm than nô lệ, các khuynh hướng cứu nước của các bậc tiền bối thất bại, Người dần hình thành chí hướng cứu nước gắn liền với cứu dân và quyết định ra đi tìm đường cứu nước; từ đó, thâm nhập sâu rộng vào đời sống của nhân dân (công nhân, nông dân) ở các nước chính quốc và thuộc địa để thấu hiểu, thấu cảm và khơi dậy tinh thần đấu tranh giải phóng khỏi ách áp bức nô lệ. Toàn bộ sự nghiệp cách mạng, Người chưa bao giờ nguôi nghĩ đến nhân dân, “Tôi hiến cả đời tôi cho dân tộc tôi”, đến khi về với thế giới người hiền, Người cũng “không có điều gì phải hối hận, chỉ tiếc là tiếc rằng không được phục vụ lâu hơn nữa, nhiều hơn nữa”.
Trong di sản tư tưởng Hồ Chí Minh, từ những quan điểm mang tính chiến lược của cách mạng đến những mong muốn thiết thực hằng ngày, như tương, cà, mắm, muối, áo cho dân mặc, nhà cho dân ở... đều là mục tiêu cách mạng của Người. Từ nhận thức đến chủ trương, quan điểm, nghị quyết, cương lĩnh, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, tôn chỉ và chương trình hành động của Mặt trận, đoàn thể... đều hướng vào mục tiêu vì nhân dân; nhân dân là mục tiêu, lý tưởng của toàn bộ sự nghiệp cách mạng chứ không chỉ là vấn đề mang tính nhất thời. Trong đó, tập trung cốt lõi vào các vấn đề, như dân tộc độc lập, nhân dân tự do, đồng bào hạnh phúc, “Nhân dân luôn là tâm điểm của quá trình tư tưởng Hồ Chí Minh và sự quan tâm của Người đối với nhân dân không bị giới hạn trong các ranh giới địa lý. Mục đích của Người không chỉ là giải phóng đất nước mình khỏi sự thống trị ngoại bang mà trong chiều sâu tư tưởng của mình, bên cạnh mục đích giành độc lập dân tộc, Người còn mong ước đến sự công bằng, bình đẳng và no ấm cho nhân dân mình”(10). Mục tiêu mọi chính sách của Đảng và Nhà nước đều nhằm mục đích phục vụ nhân dân, cán bộ, đảng viên phải vì dân phục vụ.
Nhân dân không chỉ là lực lượng lao động chủ yếu, trực tiếp sáng tạo ra của cải vật chất và tinh thần cho xã hội, mà còn là động lực thúc đẩy cách mạng phát triển. Người khẳng định: “Tất cả của cải vật chất trong xã hội, đều do công nhân và nông dân làm ra. Nhờ sức lao động của công nhân và nông dân, xã hội mới sống còn và phát triển”(11). Quần chúng nhân dân có mặt khắp mọi nơi, nếu được dẫn dắt bởi một tổ chức chính trị với đường lối đúng đắn, khoa học thì lực lượng quần chúng sẽ thành một khối thống nhất, có sức mạnh vô địch. Ngay từ khi hoạt động chính trị, Người đã nhận thấy “Đằng sau sự phục tùng tiêu cực, người Đông Dương giấu một cái gì đang sôi sục, đang gào thét và sẽ bùng nổ một cách ghê gớm, khi thời cơ đến”(12). Sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, tổ chức và lãnh đạo giành được chính quyền về tay nhân dân, Người càng nhận thấy sức mạnh to lớn của nhân dân, không chỉ trong đấu tranh chống giặc ngoại xâm, mà còn trong xây dựng xã hội mới.
Nhân dân không chỉ đóng góp tài lực, vật lực để giúp đỡ cán bộ, đảng viên và tổ chức cách mạng, mà còn để tổ chức và giải quyết thắng lợi nhiệm vụ của các phong trào cách mạng. Trong tiến trình cách mạng Việt Nam, ở mỗi giai đoạn có những phong trào khác nhau được tổ chức nhằm giải quyết nhiệm vụ đặt ra. Không chỉ trong đấu tranh chống ngoại xâm, mà còn trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, thói quen và truyền thống lạc hậu. Các phong trào được tổ chức thành công đều có sự đóng góp rất lớn và hiệu quả của nhân dân. Thực tiễn cách mạng Việt Nam trong những ngày đầu giành được chính quyền, Người kêu gọi sự đóng góp của nhân dân, dựa vào nhân dân để giải quyết nạn đói, nhờ sự ủng hộ cơ sở vật chất, tiền của của nhân dân mà tổ chức phong trào diệt giặc dốt trên toàn quốc.
Nhân dân là người làm chủ chính quyền nhà nước: Sau khi nước nhà giành độc lập, xây dựng chính quyền nhà nước mới, Người khẳng định: “Nước ta là nước dân chủ. Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân. Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân. Sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc là công việc của dân. Chính quyền từ xã đến Chính phủ Trung ương do dân cử ra. Đoàn thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên. Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”(13). Trong Thư gửi ủy ban nhân dân các kỳ, tỉnh, huyện và làng, Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp tục quán triệt và cụ thể hóa quan điểm “trọng dân” trong chính quyền nhà nước. Đó là “các cơ quan của Chính phủ từ toàn quốc cho đến các làng, đều là công bộc của dân, nghĩa là để gánh việc chung cho dân, chứ không phải để đè đầu dân như trong thời kỳ dưới quyền thống trị của Pháp, Nhật. Việc gì lợi cho dân, ta phải hết sức làm. Việc gì hại đến dân, ta phải hết sức tránh. Chúng ta phải yêu dân, kính dân thì dân mới yêu ta, kính ta”(14).
Tư tưởng “trọng dân” trong xây dựng chính quyền nhà nước được thể hiện rõ trong những nội dung cơ bản của Nhà nước của dân, do dân, vì dân. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nhà nước của dân là Nhà nước dân là chủ và dân làm chủ. Dân làm chủ nghĩa là tất cả quyền lực trong nhà nước đều thuộc về nhân dân, người dân có quyền bầu ra người đại diện cho mình, kiểm soát nhà nước và có thể bãi nhiệm chức vụ khi họ không hoàn thành nhiệm vụ. Dân là chủ tức là người dân được hưởng mọi quyền dân chủ, có quyền làm bất cứ việc gì mà pháp luật không cấm. Dân làm chủ và dân là chủ, nên cán bộ từ Trung ương đến cơ sở đều là công bộc, là “đầy tớ” của dân. Người nhiều lần nhấn mạnh: “Dân làm chủ thì Chủ tịch, bộ trưởng, thứ trưởng, ủy viên này khác là làm gì? Làm đày tớ. Làm đày tớ cho nhân dân, chứ không phải là làm quan cách mạng”(15). Nhà nước do dân là nhà nước do nhân dân lập nên thông qua việc lựa chọn, bầu ra những vị đại biểu của mình và được dân ủng hộ, giúp đỡ, đóng thuế để nhà nước hoạt động. Do đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn yêu cầu các cơ quan nhà nước phải dựa vào nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự kiểm soát của nhân dân. Muốn vậy, cán bộ, công chức phải tin dân, “trọng dân”, kính dân và không ngừng nâng cao ý thức trách nhiệm xây dựng nhà nước phục vụ nhân dân. Nhà nước vì dân là nhà nước hoạt động vì lợi ích của nhân dân, lấy lợi ích chính đáng của nhân dân làm mục tiêu. Một nhà nước vì dân là nhà nước có đội ngũ cán bộ từ người đứng đầu nhà nước đến công chức bình thường đều là công bộc, làm đầy tớ cho dân, chứ không phải làm quan cách mạng, đè đầu cưỡi cổ nhân dân. Nói đi đôi với làm, Người là một tấm gương sáng về tận trung với nước, tận hiếu với dân, tận hiến cả cuộc đời cho cách mạng. Người nói: “Cả đời tôi chỉ có một mục đích, là phấn đấu cho quyền lợi Tổ quốc, và hạnh phúc của quốc dân. Những khi tôi phải ẩn nấp nơi núi non, hoặc ra vào chốn tù tội, xông pha sự hiểm nghèo - là vì mục đích đó. Đến lúc nhờ quốc dân đoàn kết, tranh được chính quyền, uỷ thác cho tôi gánh việc Chính phủ, tôi lo lắng đêm ngày, nhẫn nhục cố gắng - cũng vì mục đích đó”(16).
Có thể thấy, Chủ tịch Hồ Chí Minh là lãnh tụ được sinh ra từ nhân dân, sống trong lòng dân và cuối đời lại về với nhân dân, “làm bạn với các cụ già hái củi, em trẻ chăn trâu, không dính líu gì với vòng danh lợi”. Người để lại cho toàn Đảng và toàn dân ta quan điểm về “trọng dân” hết sức giá trị cho công cuộc đổi mới đất nước nói chung, xây dựng chính quyền vì nhân dân phục vụ nói riêng hiện nay.
VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG "TRỌNG DÂN" CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH VÀO XÂY DỰNG CHÍNH QUYỀN VÌ NHÂN DÂN PHỤC VỤ Ở VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
Tư tưởng “trọng dân” của Chủ tịch Hồ Chí Minh là nền tảng lý luận của Đảng, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt thực tiễn cách mạng Việt Nam. Mọi chủ trương, đường lối và chính sách của Đảng đều dựa vào nguồn lực và sức mạnh của nhân dân, do nhân dân và vì lợi ích của nhân dân. Trong hơn 37 năm đổi mới đất nước (1986 - 2023), Đảng ta luôn chú trọng xây dựng chính quyền vì nhân dân phục vụ và đã có những bước tiến mới. Giai đoạn 2021 - 2030, Đảng ta định hướng: “Xây dựng nền hành chính nhà nước phục vụ nhân dân, dân chủ, pháp quyền, chuyên nghiệp, hiện đại, trong sạch, vững mạnh, công khai, minh bạch...”(17).
Nền hành chính nhà nước từ Trung ương đến cơ sở được thể chế hóa trong thực tiễn đời sống xã hội. Từ năm 2012 đến nay, tổng số văn bản quy phạm pháp luật do các bộ ban hành là hơn 8.600 văn bản; mỗi năm các bộ trình Chính phủ ban hành hơn 140 nghị định hướng dẫn, đã thiết lập khuôn khổ thể chế cho sự vận hành của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa(18),... tạo thuận lợi cho người dân tham gia vào hoạt động của chính quyền, đồng thời tạo lập cơ sở pháp lý đồng bộ, thống nhất cho tổ chức và hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước ở Trung ương và địa phương. Hệ thống hành chính nhà nước đã và đang được tiếp tục sắp xếp theo hướng tinh gọn, hiệu quả để phục vụ tốt hơn cho người dân và doanh nghiệp. Các bộ, ngành và địa phương đã giảm được nhiều đầu mối bên trong mỗi đơn vị, đặc biệt là giảm trên 25% đơn vị sự nghiệp; giảm 3.980 đơn vị sự nghiệp; thực hiện tích cực việc sắp xếp lại đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã (đã giảm 8/713 đơn vị hành chính cấp huyện và 557/11.160 đơn vị hành chính cấp xã; 38.369/98.455 thôn, bản, tổ dân phố, tương ứng giảm 39%); về tinh giản biên chế gắn với sắp xếp tổ chức bộ máy: đã giảm trên 27.500 biên chế công chức (tương ứng giảm 10,01% so với năm 2015); giảm gần 243.000 biên chế viên chức (tương ứng giảm 11,98% so với năm 2015), và vượt so với mục tiêu giảm 10% mà Nghị quyết số 39-NQ/TW, ngày 17/4/2015 của Bộ Chính trị về "Tinh giản biên chế và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức” đề ra đến năm 2021. Công chức từ cấp huyện trở lên giảm 40.000 người; giảm gần 148.000 cán bộ, công chức cấp xã và người hoạt động không chuyên trách ở thôn, bản, tổ dân phố; hợp đồng lao động giảm gần 7.000 người(19).
Cán bộ Phòng Cảnh sát quản lý hành chính về trật tự xã hội, Công an thành phố Hà Nội đến tận nhà dân làm thủ tục cấp căn cước công dân gắn chip. (Nguồn: tuoitre.vn)
Đội ngũ cán bộ, công chức được đào tạo ngày càng bài bản, có năng lực chuyên môn, đáp ứng yêu cầu công việc, có tinh thần trách nhiệm và tính chuyên nghiệp ngày càng cao, qua đó phục vụ nhân dân ngày một tốt hơn. Công tác quản lý cán bộ, công chức hiệu quả hơn, như giảm thiểu cấp trung gian, giảm số lượng cán bộ lãnh đạo, tinh giản biên chế; thực hiện cơ cấu lại, từng bước nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, giảm chi phí hành chính, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động(20). Hội nghị Trung ương 6 khóa XIII đánh giá: “Mô hình Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam không ngừng được hoàn thiện, vận hành theo cơ chế “Ðảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ”, góp phần quan trọng vào những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử của sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”(21).
Tuy vậy, việc xây dựng nền hành chính vì nhân dân phục vụ đến nay vẫn chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu phát triển đất nước, bộc lộ một số hạn chế cần khắc phục, cụ thể: 1) Vẫn còn tình trạng nợ văn bản quy định chi tiết luật, pháp lệnh đã có hiệu lực pháp luật thuộc thẩm quyền ban hành của các bộ, cơ quan ngang bộ, dẫn đến gây khó khăn trong công tác tổ chức thi hành luật; 2) Hệ thống hành chính nhà nước chưa thật sự tinh gọn, hiệu quả. Việc phân công, phân cấp, phân quyền giữa các ngành, các cấp chưa hợp lý, mạnh mẽ và đồng bộ; năng lực của một số địa phương chưa đáp ứng yêu cầu. Sự phối hợp giữa các bộ, ngành, địa phương thiếu chặt chẽ; thực hiện đổi mới lề lối làm việc, tăng cường kỷ luật, kỷ cương trong các cơ quan nhà nước chưa đi vào thực chất...; 3) Công tác chỉ đạo, tổ chức thi hành pháp luật, cơ chế phối hợp giữa Chính phủ, các bộ, ngành với Ủy ban nhân dân các cấp hiệu quả chưa cao, “trong nhiều trường hợp, việc phối hợp còn tạo thêm nhiều tầng nấc trung gian, mất nhiều thời gian, tạo ra sự đùn đẩy trách nhiệm, ảnh hưởng đến tiến độ, chất lượng công việc”(22).
Trong giai đoạn 2021 - 2030, Đảng ta định hướng: “Xây dựng nền hành chính nhà nước phục vụ nhân dân, dân chủ, pháp quyền, chuyên nghiệp, hiện đại, trong sạch, vững mạnh, công khai, minh bạch”(23). Để thực hiện nhiệm vụ chính trị quan trọng này, cần tiếp tục vận dụng, phát triển sáng tạo tư tưởng “trọng dân” của Chủ tịch Hồ Chí Minh vào xây dựng chính quyền vì nhân dân phục vụ ở các nội dung sau:
Thứ nhất, quán triệt quan điểm dân là chủ và dân làm chủ làm nguyên tắc chỉ đạo xây dựng chính quyền vì nhân dân phục vụ. Xây dựng chính quyền vì nhân dân phục vụ cần phát huy quyền làm chủ thực sự của nhân dân trong hoạt động của Nhà nước. Đại hội XIII của Đảng khẳng định, cần “Tiếp tục hoàn thiện, cụ thể hóa, thực hiện tốt cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ” và phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”. “Tổ chức một cách có hiệu quả, thực chất việc nhân dân tham gia giám sát, đánh giá hiệu quả hoạt động của các tổ chức trong hệ thống chính trị, phẩm chất, năng lực của đội ngũ cán bộ”(24). Muốn xây dựng chính quyền vì nhân dân, phải liên hệ chặt chẽ với nhân dân và khuyến khích, động viên nhân dân sử dụng quyền công dân và làm tròn nghĩa vụ công dân; tham gia bầu đại biểu đại diện cho mình để thực thi chủ trương, chính sách và các hoạt động quản lý, phát triển xã hội của Nhà nước. Từ đó, quyết định của cơ quan nhà nước phản ánh và đáp ứng tốt hơn nguyện vọng của nhân dân, góp phần gia tăng sự hài lòng đối với cơ quan nhà nước. Mặt khác, phải không ngừng nâng cao dân trí, giáo dục ý thức chính trị của nhân dân tham gia tích cực vào các hoạt động của Nhà nước.
Thứ hai, phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền là chủ, làm chủ của nhân dân trong các hoạt động hành chính của nền công vụ. Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện các quy định pháp luật theo hướng phát huy tốt hơn các hình thức dân chủ trực tiếp của nhân dân, có cơ chế để nhân dân tham gia thảo luận và kiến nghị với cơ quan nhà nước về các vấn đề của cơ sở, địa phương và cả nước; bảo đảm để nhân dân tham gia ở tất cả các khâu của quá trình đưa ra những quyết định liên quan đến lợi ích, cuộc sống của nhân dân, từ nêu sáng kiến, tham gia thảo luận, tranh luận đến giám sát quá trình thực hiện.
Phát huy tính tích cực chính trị - xã hội, trí tuệ, quyền và trách nhiệm của nhân dân tham gia xây dựng, chỉnh đốn Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội, xây dựng đội ngũ đảng viên, cán bộ, công chức; động viên nhân dân tham gia phát triển kinh tế; quản lý và tự quản xã hội; xây dựng, quản lý, thụ hưởng văn hóa; xây dựng nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân, ngoại giao nhân dân gắn với thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân, thế trận lòng dân. Công khai, minh bạch trong việc tiếp nhận, xử lý, giải quyết, phản hồi ý kiến, kiến nghị, phản ánh, khiếu nại, tố cáo của nhân dân. Kiên quyết đấu tranh chống các biểu hiện tiêu cực trong bộ máy hành chính nhà nước, như quan liêu, hách dịch, cửa quyền, tham nhũng, lãng phí, thiếu trách nhiệm, có lời nói, hành xử thiếu chuẩn mực với nhân dân gây bức xúc xã hội. Đồng thời, xử lý nghiêm mọi hành vi lợi dụng dân chủ để xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, xâm phạm an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội.
Tiếp tục hoàn thiện khung pháp lý là cơ sở xây dựng Chính phủ điện tử tiến tới Chính phủ số, nền kinh tế số và xã hội số. Nâng cao chất lượng công tác xây dựng pháp luật theo hướng khoa học, hiện đại, chuyên nghiệp. Nêu cao trách nhiệm người đứng đầu trong xây dựng pháp luật và thi hành pháp luật, coi đây là nhiệm vụ trọng tâm, ưu tiên hàng đầu trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành. Đây vừa là xu thế khách quan, vừa là yêu cầu đòi hỏi cấp thiết trong thời đại 4.0 hiện nay nhằm xây dựng chính quyền phục vụ nhân dân.
Thứ ba, tiếp tục xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức thật sự là công bộc của dân. Trong xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức hiện nay, phải lấy tiêu chí phục vụ lợi ích nhân dân, hướng tới chân lý “Việc gì có lợi cho dân phải hết sức làm, việc gì có hại cho dân phải hết sức tránh”(25). Thường xuyên bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ, công chức để họ trở thành những công chức chuyên nghiệp, thạo việc, công tâm và từng bước hoàn thiện tiêu chuẩn đối với cán bộ, công chức phù hợp với vị trí việc làm nhằm bảo đảm chất lượng của đội ngũ cán bộ, công chức hiện nay. Giáo dục đội ngũ cán bộ, công chức phải gần dân, lắng nghe, tiếp thu và phản hồi ý kiến của nhân dân để vừa nắm bắt tâm tư tình cảm của dân, vừa kịp thời điều chỉnh, bổ sung và hoàn thiện nền công vụ trọng dân. Có cơ chế “khơi dậy tinh thần cống hiến vì đất nước, tạo động lực và áp lực để mọi cán bộ, công chức, viên chức hoàn thành tốt nhất nhiệm vụ được giao, tận tụy phục vụ nhân dân;... bảo vệ cán bộ đổi mới, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám đột phá, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung”(26) theo tinh thần Đại hội XIII của Đảng./.